Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây ra sự sụp đổ của nhiều tổ chức tài chính ngân hàng và, không theo dấu từng bước trong lý thuyết domino kinh tế, ảnh hưởng xấu đến hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam. Đến cuối năm 2011 thị trường Việt Nam chứng kiến tình trạng thanh khoản căng thẳng; một số lượng lớn các tổ chức tín dụng không thể trả nợ, dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán cao, gây tổn hại cho hệ thống và làm mất ổn định thị trường tài chính; cạnh tranh huy động vốn giữa các tổ chức tín dụng trở nên gay gắt và không lành mạnh; tỷ lệ tín dụng trên huy động vốn đạt mức cao tới 103.07%. Trong bối cảnh bất lợi như vậy, một mục tiêu khẩn cấp đã được đặt ra: tái cơ cấu và tổ chức lại các tổ chức tín dụng hoạt động kém và xử lý các khoản nợ xấu để đảm bảo hoạt động đầy đủ và an toàn của toàn bộ hệ thống.
Theo Luật tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng có thể được coi là dưới sự kiểm soát đặc biệt nếu “không thể thanh toán, trả nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; hoặc tổn thất tích lũy của tổ chức lớn hơn 50% vốn ủy quyền và quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính được kiểm toán mới nhất, hoặc không duy trì tỷ lệ đủ vốn tối thiểu từ 8% trở lên theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong mỗi kỳ 12 tháng liên tiếp, hoặc tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn 4% trong sáu tháng liên tiếp; hoặc xếp hạng của nó đã kém trong hai năm liên tiếp theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Dưới sự kiểm soát đặc biệt, tổ chức tín dụng sẽ được kiểm soát trực tiếp bởi Ngân hàng Nhà nước. Kế hoạch tái cơ cấu tổ chức tín dụng chịu sự kiểm soát đặc biệt bao gồm: kế hoạch phục hồi; kế hoạch sáp nhập, hợp nhất và chuyển nhượng toàn bộ cổ phần và vốn góp; kế hoạch giải thể; kế hoạch chuyển nhượng bắt buộc; và kế hoạch phá sản. Các kế hoạch tái cấu trúc này được thiết kế để cung cấp sự an toàn cho hệ thống tín dụng và khắc phục các vấn đề cơ bản mà tổ chức tín dụng phải đối mặt dưới sự kiểm soát đặc biệt.
Sau khi xem xét và phân loại Ngân hàng Nhà nước, số lượng tổ chức tín dụng nhỏ và yếu giảm dần kể từ cuối năm 2011, số tổ chức tín dụng bị loại khỏi hệ thống là khoảng 22 tổ chức bao gồm bảy ngân hàng thương mại trong nước, ba ngân hàng liên doanh, bốn tổ chức tín dụng phi ngân hàng và tám chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng hoạt động kém tiếp tục tồn tại và chúng phải chịu sự mua lại bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước (3 ngân hàng thương mại) hoặc kiểm soát đặc biệt (1 tổ chức tín dụng phi ngân hàng). Tỷ lệ nợ xấu và tài sản phi lợi nhuận của các tổ chức tín dụng này cao. Việc quản lý các khoản nợ quá hạn và thu hồi tài sản không có lãi đã gặp nhiều khó khăn và chưa đạt được bất kỳ kết quả đáng kể nào.
Điều 148b Luật Tổ chức tín dụng quy định một số biện pháp thực hiện kế hoạch phục hồi như bán nợ xấu có hoặc không có tài sản thế chấp cho Công ty TNHH Quản lý Tài sản của Tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC); xin vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Quỹ dự trữ chuyên nghiệp), Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân) và các tổ chức tín dụng khác; mua và đầu tư hệ thống công nghệ thông tin vượt quá 50% vốn điều lệ và vốn điều lệ quỹ dự trữ, v.v.
Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, do ngân sách hạn chế không đủ để tái thiết các tổ chức tài chính yếu, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hỗ trợ, theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, sẽ tập trung cung cấp vốn ngắn hạn (mặc dù có thể mở rộng).
Để tạo ra các lựa chọn. Ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1058/ QĐ-TTg phê duyệt Dự án “Tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng liên quan đến xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 — 2020”, giải pháp tập trung nhằm khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư không thể cấp các khoản vay đặc biệt như Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức trong nước khác, nhưng họ có thể mua cổ phần và do đó góp vốn cho các tổ chức tín dụng được kiểm soát. Sự tham gia của nhà đầu tư được coi là dài hạn và bao gồm sự tham gia giá trị gia tăng trong việc quản lý và quản lý các tổ chức tín dụng thông qua đại diện tại các cơ quan quản lý của các tổ chức tín dụng như Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị, Ban giám sát. Một nguồn tài chính cần thiết như thế này cần được thúc đẩy để hỗ trợ tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
3. Khuyến nghị hoàn thành các quy định của pháp luật về tái cấu trúc
Vấn đề đầu tiên liên quan đến thời điểm nộp kế hoạch chuyển giao 100% cổ phần và vốn góp của các tổ chức tín dụng được kiểm soát với vốn của các doanh nghiệp nhà nước cho Thủ tướng Chính phủ. Câu hỏi đặt ra là kế hoạch như vậy phải được trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trước hoặc sau quá trình đấu giá cổ phần vốn của các doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, một số tổ chức tín dụng được kiểm soát vẫn giữ lại vốn của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (trước đây là các công ty thuộc doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là đơn vị đầu tư trong công ty mẹ như sắp xếp cho vay, quản lý nguồn tiền mặt và tình hình tiền mặt, quản lý đầu tư số tiền chưa sử dụng cho các công ty con nội bộ). Nếu chuyển toàn bộ vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng được kiểm soát thì phần vốn của doanh nghiệp nhà nước phải tuân thủ quy định về quản lý vốn nhà nước. Tuy nhiên, không có mối liên hệ nào được thiết lập giữa các quy định của Luật tổ chức tín dụng và Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước. Do đó, các nhà đầu tư tham gia chuyển nhượng vốn của các tổ chức tín dụng được kiểm soát có thể không hình thành một kế hoạch cụ thể cho quá trình chuyển toàn bộ vốn điều lệ.
Theo Điều 149 và Điều 149 (b) của Luật Tổ chức tín dụng, khi tổ chức tín dụng soạn thảo kế hoạch chuyển vốn điều lệ, tổ chức tín dụng phải xác định người dự kiến nhận cổ phần và vốn góp. Theo Điều 29 (a) Nghị định 32/2018/NĐ-CP, đấu giá công khai phải được tổ chức khi chuyển vốn tại công ty cổ phần niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán nhưng không phải đối với các công ty chưa có trên sàn giao dịch chứng khoán hoặc công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa niêm yết. Quá trình đấu giá không nhằm mục đích xác định nhà đầu tư mong đợi. Mục đích, trên thực tế, là chính thức chuyển quyền sở hữu cổ phần và vốn do các doanh nghiệp nhà nước đóng góp cho các nhà đầu tư giành chiến thắng. Trước khi kế hoạch chuyển nhượng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, việc chuyển nhượng chính thức bị cấm, điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước không được phép đấu giá. Nhưng nếu không có đấu giá thì sẽ không có thông tin về nhà đầu tư để trình Thủ tướng Chính phủ trong kế hoạch chuyển nhượng.
Các quy định này cần được nêu rõ hơn tại (i) Luật tổ chức tín dụng, cụ thể là sau khi Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt chuyển nhượng 100% vốn điều lệ, cổ đông, thành viên là doanh nghiệp Nhà nước có thể tiến hành đấu giá để lựa chọn nhà đầu tư nhận chuyển nhượng; và (ii) Nghị định 32/2018/NĐ-CP, trong trường hợp cần có quy định rằng sau khi trúng đấu giá nhưng trước kế hoạch chuyển nhượng toàn bộ cổ phần và vốn góp của tổ chức tín dụng được kiểm soát là Được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, nhà đầu tư là không bắt buộc phải trả tiền cho việc bán cổ phần, vốn góp cho doanh nghiệp Nhà nước hoặc sẽ được hoàn lại (kể cả tiền đặt cọc) trong trường hợp thanh toán, số cổ phần chưa thanh toán hoặc thanh toán nhưng sau đó hoàn lại vẫn thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước.
Vấn đề thứ hai liên quan đến điều gì xảy ra với tình trạng kiểm soát đặc biệt của một tổ chức tín dụng sau khi chuyển nhượng 100% cổ phần và vốn góp, cụ thể là liệu quyền kiểm soát đặc biệt có được coi là tự động chấm dứt hay không. Hiện tại, Luật tổ chức tín dụng không đề cập đến việc tự động chấm dứt kiểm soát đặc biệt sau khi chuyển nhượng cổ phần và vốn góp. Luật chỉ quy định rằng kế hoạch cải thiện tình hình của các tổ chức tín dụng được kiểm soát phải được đưa vào đề xuất chuyển nhượng cổ phần và vốn góp đệ trình Thủ tướng Chính phủ.
Theo các quy định hiện hành, ngay cả đối với chuyển vốn điều lệ cho các nhà đầu tư mới, sự kiểm soát đặc biệt áp đặt đối với tổ chức tín dụng sẽ không bị loại bỏ. Mặc dù giao dịch chuyển nhượng đã được hoàn thành, rủi ro đối với nhà đầu tư không thay đổi sau khi hoàn thành chuyển nhượng vì tổ chức vẫn nằm dưới sự kiểm soát đặc biệt. Điều này ngăn cản tổ chức hoàn thành việc tái cấu trúc và duy trì cấu trúc cũ, do đó phải đối mặt với khó khăn Kinh thánh khi đặt rượu mới vào chai cũ.
Khi chuyển 100% vốn điều lệ và hình thức pháp lý được thay đổi, các bên giao dịch chuyển nhượng và tổ chức tín dụng được kiểm soát được hưởng một khoảng thời gian trước và sau khi nộp đơn xin phê duyệt tái cơ cấu để cải thiện tình hình dẫn đến việc tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt. Sau khi chuyển toàn bộ vốn điều lệ, sự kiểm soát đặc biệt sẽ ngừng tồn tại, điều này làm thay đổi chất lượng và phù hợp với mục đích tái thiết. Nếu tổ chức tín dụng không thể cải thiện tình hình dẫn đến kiểm soát đặc biệt, việc chuyển nhượng sẽ thất bại.
Do đó, Luật tổ chức tín dụng cần bao gồm các yêu cầu bắt buộc bổ sung đối với các tổ chức tín dụng sau khi chuyển toàn bộ cổ phần và vốn góp, giá trị thực của vốn điều lệ ít nhất phải bằng vốn pháp lý. Việc chuyển giao phải đảm bảo tỷ lệ an toàn theo quy định và sau khi chuyển giao, kiểm soát đặc biệt sẽ tự động chấm dứt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Báo cáo tổng hợp thực hiện Luật xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém và xử lý nợ xấu (Dự thảo đầu tiên ngày 07/02/2017).
(2) Khó khăn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc đối phó với các tổ chức tín dụng yếu kém — Kình Dương (https://vietnamfinance.vn/cai-kho-cua-nhnn-trong-xu-ly-cac-tctd-yeu-kem-20170213005945978.htm);
(3) Công ty Tài chính - lúc đó & bây giờ - Thanh Thủy (http://ndh.vn/infographic-cong-ty-tai-chinh-ngay-ay-bay-gio-2017050208373325p4c149.news);
(4) Đề án tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng liên quan đến xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 được ban hành cùng với Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017;
(5) Báo cáo đánh giá tác động của đề xuất dự án Luật Hỗ trợ tái cơ cấu tổ chức tín dụng và giải quyết nợ xấu (Dự thảo đầu tiên ngày 08/02/2017 của Ngân hàng Nhà nước).