Giới thiệu
Tính đến năm 2022, dân số Việt Nam hiện đã gần 100 triệu người, với 2/3 là trong độ tuổi lao động. Trong khi đất nước này là nơi có thị trường thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng, đây cũng là một trong những quốc gia Đông Nam Á có mức thâm nhập thẻ tín dụng thấp nhất, ước tính khoảng 4,1% vào năm 2021.
Vì mua ngay trả sau (BNPL) cho phép người tiêu dùng phân bổ chi phí qua nhiều đợt và thu hút những người không thể hoặc không muốn mua hàng hóa hoặc dịch vụ bằng cách trả giá đầy đủ, những điều kiện này tạo cơ hội lý tưởng cho các nhà cung cấp dịch vụ BNPL.
Bất chấp cơ hội này, bối cảnh BNPL ở Việt Nam vẫn chậm chạp. Điều này một phần là do Việt Nam không có khung pháp lý rõ ràng quy định phương pháp BNPL. Ngay cả kế hoạch sandbox cho các hoạt động fintech vẫn đang trong quá trình lập pháp.
Ngoài ra, ngay cả khi chủ sở hữu nền tảng BNPL hợp tác với các nhà cho vay ngân hàng truyền thống, các bên cần phải đối phó với khoảng cách đáng kể giữa trang web quy định nghiêm ngặt mà các nhà cho vay truyền thống phải tuân theo và nhu cầu của các nhà cung cấp fintech để di chuyển với tốc độ nhanh chóng.
Cơ cấu liên doanh BNPL tại thị trường Việt Nam
Vì những lý do trên, các liên doanh BNPL gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường Việt Nam, trừ khi họ được trang bị cơ cấu đầu tư phù hợp.
Trong các dịch vụ BNPL, hoạt động chính là cho vay, thường hạn chế đối với các tổ chức phi ngân hàng, bao gồm cả chủ sở hữu nền tảng. Trong thực tế, hoạt động cho vay có thể được cung cấp thông qua một số cấu trúc, chẳng hạn như:
Trong cấu trúc phiếu mua hàng, các công ty BNPL vận hành một nền tảng nơi người tiêu dùng có thể mua phiếu mua hàng điện tử cho phép họ mua hàng và trả lại theo từng đợt. Cơ sở pháp lý cho cấu trúc này vẫn còn đáng nghi ngờ.
Trong cấu trúc hiệu cầm đồ, nói chung, người cầm đồ có thể cho vay tiền cho người vay để đảm bảo một vật phẩm do người vay cầm đồ. Hiện tại, tại Việt Nam, chỉ có các công ty địa phương mới được cấp phép cung cấp dịch vụ cầm đồ. Do đó, để đạt được tính địa phương cần thiết, một cấu trúc đặc biệt có thể cần phải được triển khai.
Nói một cách đơn giản, để phục vụ khách hàng, cấu trúc hợp tác cho BNPL yêu cầu ba người chơi, cụ thể là:
Công ty BNPL đóng vai trò của một nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin vận hành một nền tảng kết nối người tiêu dùng với người bán và người cho vay. Đối với các thương nhân và người cho vay, công ty cung cấp nền tảng và công cụ của mình, đặc biệt là các thuật toán học máy, để phân tích hành vi mua sắm của người tiêu dùng cho mục đích cung cấp tín dụng.
Thông qua nền tảng, đơn xin vay được nộp để người cho vay xem xét. Sau khi được chấp thuận, số tiền vay được giải ngân trực tiếp cho người bán chịu trách nhiệm mua hàng hoặc vào tài khoản ngân hàng được chỉ định của người tiêu dùng để tài trợ cho giao dịch mua có liên quan. Sau đó, người bán tiến hành mua hàng và người tiêu dùng thực hiện trả nợ theo từng đợt trong một khoảng thời gian xác định trước.
Từ quan điểm thực tế, so với các cấu trúc khác, cấu trúc đối tác chứng tỏ là thực dụng và hài hòa hiệu quả các nhu cầu khác nhau của các bên liên quan, đồng thời giảm thiểu hiệu quả rủi ro tuân thủ. Cấu trúc hợp tác cho phép nền tảng fintech tận dụng tín dụng của công ty tài chính, cung cấp giấy phép cho vay và kinh nghiệm cần thiết để cung cấp tín dụng cho khách hàng. Nó cũng cho phép tất cả các bên được hưởng lợi từ hiệu suất tín dụng và hiệu suất kém về tín dụng.
Trong khi đó, nó cho phép nền tảng fintech được hưởng lợi từ tín dụng và giấy phép mà nó không nắm giữ, cho phép nó khai thác vào thị trường mà nếu không thì nó không thể. Nó tạo ra một kênh mới cho các ngân hàng truyền thống và các công ty tài chính triển khai tín dụng, cho phép các nhà cho vay truyền thống này phát triển và đồng thời giữ thị phần của họ. Cấu trúc hợp tác kết hợp các cơ chế bồi thường và hợp đồng giới thiệu để giảm thiểu rủi ro tuân thủ một cách hiệu quả.
Hình: cấu trúc hợp tác
Khi thực hiện cấu trúc đối tác, có một số vấn đề cần được xử lý hiệu quả, đặc biệt là đối với một công ty BNPL:
Quá trình cấu trúc hợp tác được tạo ra từ tất cả các yếu tố này và mỗi yếu tố phải được thống nhất một cách hợp lý để giúp đạt được mục đích thương mại, do đó giảm thiểu rủi ro.
Bình luận
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gần đây đã lưu hành một phiên bản mới của dự thảo nghị định quy định cơ chế sandbox cho fintech trong ngành ngân hàng, trong đó dịch vụ BNPL cần được bao gồm. Khía cạnh quan trọng nhất của dự thảo nghị định này là các đối tượng đủ điều kiện tham gia cơ chế sandbox phải là các tổ chức hợp nhất Việt Nam hoạt động tại Việt Nam. Điều này có nghĩa là, để một nhà cung cấp có thể đăng ký cơ chế sandbox, người nộp đơn phải là một công ty fintech đang hoạt động tại Việt Nam.
Do đó, nếu các nhà cung cấp dịch vụ BNPL nước ngoài ở Việt Nam chờ các quy định trở nên rõ ràng và đầy đủ trước khi họ tham gia vào các dịch vụ liên quan đến BNPL, thì không chắc là yêu cầu đủ điều kiện của dự thảo nghị định sẽ được đáp ứng. Vì vậy, để đủ điều kiện, họ cần bắt đầu tham gia vào hoạt động kinh doanh BNPL. Vì mục đích đó, cấu trúc đối tác, nếu được chế tạo và thực hiện một cách chuyên nghiệp, sẽ giúp ích.