Dự án Thủy điện Thượng Kon Tum là một trong những dự án trọng điểm quốc gia, được đầu tư bởi Công ty Cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh (”VSH”). Dự án này được khởi công vào năm 2009 và được thiết kế xây dựng trên sông Đắk Nghệ (nhánh thượng nguồn chính của sông Sê San) với dự kiến công suất lắp đặt là 220 MW và sản lượng điện ước tính hàng năm đạt 1.094 tỷ kW. Trong số các nhà thầu thực hiện dự án này, có một tập đoàn các nhà thầu Trung Quốc, bao gồm Tập đoàn Kỹ thuật PowerChina HuaDong và Công ty TNHH Tập đoàn 18 Đường sắt Trung Quốc (”Hiệp hội nhà thầu Trung Quốc”). Năm 2010, VSH và Hiệp hội Nhà thầu Trung Quốc ký kết hợp đồng thực hiện các hoạt động liên quan đến lĩnh vực năng lượng của dự án Thủy điện Thượng Kon Tum. Tuy nhiên, Nhà thầu đã chọn tạm đình chỉ việc thực hiện dự án, với lý do chủ đầu tư bị cáo buộc không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán của mình. Ngược lại, VSH cho rằng nhà thầu đã vi phạm nghiêm trọng các điều khoản của thỏa thuận do gây ra sự chậm trễ đáng kể trong quá trình xây dựng. Vào ngày 23rd Tháng 8 năm 2014, tập đoàn nhà thầu Trung Quốc đã đệ trình yêu cầu trọng tài chống lại VSH lên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (”VIAC”) do chấm dứt hợp đồng của VSH. Trong giải thưởng cuối cùng ngày 10th Tháng 4/2019, VIAC yêu cầu VSH thanh toán và bồi thường cho Hiệp hội Nhà thầu Trung Quốc số tiền 2.163 tỷ đồng. Ngày 14th Tháng 11/2019, Tòa án nhân dân Hà Nội ban hành Quyết định số 11/2019/QĐ-PQTT về việc hủy bỏ hoàn toàn Phán quyết Trọng tài ngày 10th Tháng 4 năm 2019 của Vụ Trọng tài số 24/14. Năm 2022, Hiệp hội Nhà thầu Trung Quốc, với tư cách là nhà đầu tư, đã đệ đơn kiện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (”ICSID”) căn cứ vào Hiệp định đầu tư ASEAN-Trung Quốc năm 2009 yêu cầu bồi thường do hành vi tịch thu của Tòa án Việt Nam. Hiện tại, vụ việc vẫn đang trong quá trình giải quyết.
Dưới đây là một số ý kiến liên quan đến căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài dựa trên trường hợp nói trên theo Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam 2010 và đánh giá các khiếu nại của tập đoàn các nhà thầu trong vụ tranh chấp đưa ra giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
Trong phiên điều trần về đơn xin hủy phán quyết trọng tài, Bên yêu cầu lập luận rằng “[...] liên quan đến địa điểm trọng tài theo Vụ án trọng tài số 24/14, không đảm bảo tính khách quan, và Hội đồng Trọng tài đã không chứng minh được những rủi ro pháp lý thực tế mà hai trọng tài viên Singapore và Nhật Bản phải đối mặt khi tiến hành chuyên môn tại Việt Nam. Việc thay đổi địa điểm phiên tòa, không phải tại Hà Nội, Việt Nam, cấu thành vi phạm thỏa thuận giữa hai bên trong tranh chấp được ghi trong Phán quyết tố tụng ngày 15th Tháng 5 năm 2015; trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; và vi phạm Điều 11 Luật Trọng tài Thương mại 2010.”
Theo quy định tại Điều 11 Luật Trọng tài thương mại 2010, nơi trọng tài được chia làm hai loại dựa trên thoả thuận của các bên tranh chấp: (i) Trường hợp các bên chưa thoả thuận về nơi giải quyết tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền xác định địa điểm trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam; (ii) Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, Hội đồng Trọng tài có quyền tiến hành phiên tòa tại địa điểm mà mình cho là phù hợp. Việc lựa chọn nơi giải quyết tranh chấp là quyền của các bên, tuy nhiên, nếu các bên từ bỏ quyền này, quyết định của Hội đồng Trọng tài về nơi trọng tài theo trường hợp (i) là không thể tranh cãi. Đối với trường hợp (ii), vấn đề đang được giải quyết là liệu quyết định của Hội đồng Trọng tài về nơi giải quyết tranh chấp được coi là “phù hợp” có áp dụng cho các trường hợp các bên đã đạt được thỏa thuận rõ ràng về nơi giải quyết tranh chấp hay không và liệu có cần giải thích cho sự phù hợp này hay không.
Về vấn đề này, cần phải lật ngược nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các Bên theo quy định tại Điều 4 (1) Luật Trọng tài Thương mại 2010. Theo đó, tương tự như nguyên tắc của Tự chủ của Đảng trong trọng tài thương mại quốc tế, Tòa Trọng tài phải đảm bảo rằng thỏa thuận của các bên được ưu tiên (bao gồm cả thỏa thuận về nơi trọng tài). Quan trọng hơn, nếu Hội đồng Trọng tài coi một nơi trọng tài khác là “phù hợp”, các yêu cầu ngầm được quy định tại Điều 11 của Luật Trọng tài Thương mại 2010, ủy quyền cho Hội đồng Trọng tài chứng minh lợi ích của sự phù hợp đó. Một khía cạnh khác cần xem xét là liệu các bên không phản đối quyết định của Hội đồng Trọng tài về một nơi trọng tài khác với thỏa thuận ban đầu có thể được coi là chấp nhận nơi giải quyết tranh chấp mới và thuộc phạm trù “không có thỏa thuận nào khác”. Xét rằng, trong trường hợp trên, dù trong quá trình giải quyết tranh chấp, các Bên phản đối hay không, việc Hội đồng Trọng tài chưa chứng minh được sự phù hợp trong việc lựa chọn nơi điều trần là không phù hợp với pháp luật. Từ đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài là hợp lý.
Trong thực tế, việc hủy bỏ phán quyết trọng tài của tòa án quốc gia dựa trên luật pháp trong nước không phải là một trường hợp hiếm gặp. Nhiều quốc gia cho phép hủy bỏ phán quyết trọng tài nếu nó đi ngược lại chính sách công của họ (ví dụ: Singapore, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, v.v.). Trong trường hợp của Việt Nam, nó được coi là một hành vi “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Bằng cách đồng ý áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp, các bên đồng thời chấp nhận rủi ro rằng phán quyết trọng tài có thể bị hủy bỏ. Việc hủy bỏ phán quyết trọng tài không tự động ngụ ý việc tịch thu tài sản của nhà đầu tư ở quốc gia đó. Việc tịch thu tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài đề cập đến việc nhà nước tịch thu tài sản hoặc quyền tài sản của nhà đầu tư.
Thứ nhất, xét đến tính chất quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư của nhà nước, hoạt động này đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp của cơ quan có thẩm quyền để thoái vốn tài sản. Về bản chất, cơ quan tư pháp Việt Nam chỉ xem xét các khía cạnh tố tụng của tố tụng trọng tài mà không can thiệp vào nội dung tranh chấp và không đưa ra bất kỳ quyết định nào liên quan đến việc tịch thu tài sản hoặc quyền tài sản của nhà đầu tư trong lãnh thổ Việt Nam. Do đó, không thể khẳng định rằng việc hủy bỏ phán quyết trọng tài tạo thành một biện pháp tước đoạt tài sản của nhà đầu tư.
Thứ hai, xét đến hoạt động giải quyết tranh chấp của Toà án, Toà án Việt Nam đã tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc xem xét việc hủy bỏ phán quyết trọng tài. Theo quy định tại Điều 71 (8) của Luật Trọng tài thương mại 2010, sau khi hủy bỏ phán quyết trọng tài, các bên tranh chấp có thể đồng ý đưa vụ án ra trọng tài lần nữa hoặc một bên có thể nộp đơn kiện trước Tòa án nhân dân để xét xử. Do đó, các bên luôn có quyền để cơ quan giải quyết tranh chấp xem xét lại vụ án, và tập đoàn các nhà thầu có cơ hội chính đáng để thắng vụ án, được bồi hoàn tài sản và thiệt hại một cách hợp pháp.
Nói chung, trong quá trình giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài, Hội đồng Trọng tài cần thận trọng trong việc xem xét thỏa thuận của các bên và có đủ căn cứ cho từng quyết định liên quan đến vấn đề tố tụng. Cũng cần nhấn mạnh rằng các hoạt động của tòa án trong việc kiểm tra việc hủy bỏ phán quyết trọng tài là cần thiết và không nên được coi là cơ sở để khởi xướng tranh chấp trong các vụ án đầu tư quốc tế liên quan đến quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư.
Để biết thêm thông tin về chủ đề này xin vui lòng liên hệ Net Lê tại LNT & Partners qua điện thoại (+84 28 3821 2357) hoặc email (net.le@lntpartners.com). Trang web của LNT & Partners có thể được truy cập tại www.lntpartners.com.