RỦI RO GIAO DỊCH TIỀN ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
Trong vài năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng các hoạt động giao dịch tiền ảo hoặc tiền kỹ thuật số (tiền điện tử). Mặc dù đây có thể là một sân chơi mới thú vị cho các nhà đầu tư, nhưng từ góc độ pháp lý, giao dịch tiền điện tử nằm trong vùng xám, nơi vẫn còn nhiều sự không chắc chắn xung quanh tính hợp pháp của nó. Không có khung pháp lý toàn diện nào tồn tại trong lĩnh vực này, điều này được cho là đòi hỏi mức độ thận trọng cao hơn từ các nhà đầu tư muốn mạo hiểm vào thị trường giao dịch tiền điện tử.
Bản cập nhật này cung cấp một cái nhìn tổng quan về cách xử lý giao dịch tiền điện tử theo luật pháp Việt Nam, các rủi ro mà nhà đầu tư cần lưu ý và những phát triển pháp lý cần chú ý trong lĩnh vực này.
Tiền điện tử theo pháp luật Việt Nam là gì?
Kể từ khi tiền điện tử xuất hiện vào năm 2009, các nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu đã xem xét kỹ định nghĩa của nó nhưng vẫn chưa đồng ý về một thuật ngữ được chấp nhận chung. Đặc biệt, Ngân hàng Thế giới phân loại tiền điện tử là một tập hợp con của tiền kỹ thuật số [1], trong khi IMF và Ngân hàng Trung ương châu Âu coi tiền điện tử là một tiền ảo [2]. Do sự bất đồng này, giao dịch tiền điện tử vẫn được coi là bất hợp pháp hoặc không được công nhận ở nhiều nơi trên thế giới.
Không có định nghĩa về tiền điện tử theo luật pháp Việt Nam. Tiền điện tử chưa được công nhận là một phương tiện thanh toán hợp pháp, cũng không nằm trong định nghĩa pháp lý về tài sản/tài sản, hàng hóa/dịch vụ hoặc ngoại tệ. Cụ thể:
- Điều 105 (Tài sản) của Bộ luật Dân sự 2015 xác định”tài sản“bao gồm”đồ vật, tiền bạc, giấy tờ có giá trị và quyền sở hữu. Tài sản bao gồm bất động sản và tài sản lưu động. Bất động sản và tài sản lưu động có thể là tài sản hiện có và tài sản sẽ được hình thành trong tương lai.” Vì tiền điện tử chỉ là một đại diện kỹ thuật số của giá trị, nó không thuộc bất kỳ khái niệm nào nói trên và do đó không phải là một loại tài sản hoặc tài sản theo luật pháp Việt Nam.
- Điều 3.2 (Giải thích các điều khoản) của Luật Thương mại 2005 xác định”hàng hóa“như”tất cả các loại tài sản di chuyển, bao gồm cả tài sản di động sẽ được hình thành trong tương lai” và”đối tượng gắn liền với đất.” Vì tiền điện tử không phải là một loại tài sản hoặc tài sản như đã đề cập ở trên, nó cũng không nằm trong định nghĩa này.
- Điều 1.1 Nghị định 80/2016/NĐ-CP quy định”công cụ thanh toán không dùng tiền mặt” như bao gồm”séc, lệnh thanh toán, lệnh thu tiền, thẻ ngân hàng và các công cụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt ngoài phạm vi này là bất hợp pháp”. Áp dụng định nghĩa này, vì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (”SBB”) chưa chính thức công nhận tiền điện tử là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt hợp pháp, không chỉ tiền điện tử nằm ngoài phạm vi định nghĩa này mà việc sử dụng tiền điện tử làm phương tiện thanh toán tại Việt Nam cũng là bất hợp pháp.
- Điều 6.2 (Giải thích các điều khoản) của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định”ngoại hối“như”tiền tệ của các quốc gia khác hoặc tiền tệ chung của châu Âu và các loại tiền tệ phổ biến khác được sử dụng cho thanh toán quốc tế hoặc khu vực...Tuy nhiên, là một hệ thống phi tập trung, tiền điện tử không được phát hành bởi bất kỳ ngân hàng trung ương, tổ chức tín dụng hoặc tổ chức tiền điện tử nào và do đó không phải là loại tiền tệ được công nhận của bất kỳ quốc gia nào. Do đó, tiền điện tử sẽ không được coi là ngoại hối theo luật pháp Việt Nam.
Giao dịch tiền điện tử có hợp pháp ở Việt Nam không?
Nói một cách đơn giản, giao dịch tiền điện tử liên quan đến việc trao đổi một loại tiền điện tử này lấy một loại tiền điện tử khác, mua và bán tiền xu và trao đổi tiền pháp định thành tiền điện tử. Mặc dù giao dịch tiền điện tử không được liệt kê trong hệ thống các ngành kinh tế của Việt Nam theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg, nhưng cũng không nằm trong danh sách các ngành kinh doanh có điều kiện hoặc bị cấm theo Luật Đầu tư 2020. Tổng hợp lại, điều này cho thấy luật pháp Việt Nam không cho phép giao dịch tiền điện tử một cách rõ ràng nhưng cũng không nghiêm cấm hoạt động này một cách rõ ràng.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng SBV đã cấm rõ ràng tất cả các giao dịch liên quan đến tiền điện tử thông qua hệ thống ngân hàng theo Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 13 tháng 4 năm 2018. Cụ thể, với mục đích giải quyết rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế, Chỉ thị 02 cấm các tổ chức tín dụng và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian cung cấp dịch vụ thanh toán trong nước hoặc xuyên biên giới, giao dịch thẻ, chuyển tiền và các giao dịch liên quan đến tiền điện tử khác.
Ngoài ra, các giao dịch thẻ bất hợp pháp liên quan đến tiền ảo hoặc tiền kỹ thuật số được quy định thêm theo Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 07/01/2021 của SBV về tăng cường phòng ngừa vi phạm liên quan đến thẻ ngân hàng. Cụ thể, SBV chỉ đạo các tổ chức phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian hợp tác với nhau để ngăn chặn các giao dịch thẻ bất hợp pháp liên quan đến tiền ảo hoặc tiền kỹ thuật số.
Có bất kỳ rủi ro nào liên quan đến giao dịch tiền điện tử ở Việt Nam không?
Với môi trường pháp lý không chắc chắn, các nhà đầu tư và nhà giao dịch tiền điện tử phải đối mặt với rủi ro cực kỳ cao trong trường hợp tranh chấp vì họ có thể không thể bảo vệ các quyền hợp pháp của mình.
Ngoài ra, cần lưu ý rằng việc phát hành, cung cấp và sử dụng các loại tiền ảo và kỹ thuật số như phương tiện thanh toán bị cấm ở Việt Nam. Vi phạm quy định này có thể dẫn đến các hình phạt hành chính và hình sự sau đây:
- Phạt tiền lên đến 100.000.000 đồng (khoảng 4.300 USD) cho việc phát hành, cung cấp hoặc sử dụng các công cụ thanh toán bất hợp pháp (Điều 26.6 (d) Nghị định 88/2019/NĐ-CP).
- Phạt tiền lên đến 300.000.000 đồng (khoảng 12.900 USD) hoặc phạt tù tối đa 3 năm vì phát hành, cung cấp, hoặc sử dụng phương tiện thanh toán bất hợp pháp, giả mạo hoặc sử dụng phương tiện/chứng từ thanh toán giả mạo, do đó gây thiệt hại cho người khác từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng (Điều 206.1 (g) của Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi)).
Xem không gian này
Trong trường hợp không có khuôn khổ pháp lý, chính phủ Việt Nam đã hành động để đối phó với sự phổ biến ngày càng tăng của giao dịch tiền điện tử. Ví dụ, chính phủ đã phê duyệt một kế hoạch hành động để phát triển khung pháp lý về quản lý tài sản ảo, tiền kỹ thuật số và tiền ảo và đặt ra tháng 12 năm 2020 là thời hạn để các cơ quan có liên quan đề xuất sửa đổi luật về tài sản và tiền tệ ảo (Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017). Vì không có quy định nào được ban hành cho đến nay, vẫn còn phải xem quan điểm lập pháp nào mà chính quyền sẽ áp dụng trong lĩnh vực này.
Ngoài Quyết định 1255, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2018 và sau đó SBV đã ban hành hai chỉ thị như đã đề cập ở trên để thắt chặt quản lý các hoạt động liên quan đến bitcoin và các loại tiền ảo khác. Các Chỉ thị đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát giao dịch tiền điện tử và giảm thiểu các tác động tiêu cực tiềm ẩn của nó đối với thị trường Việt Nam.
Tóm lại, khung pháp lý cho kinh doanh và đầu tư tiền điện tử vẫn đang trong quá trình triển khai. Do đó, tất cả các nhà đầu tư và nhà giao dịch nên nhận thức rõ các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến các hoạt động liên quan đến tiền điện tử ở Việt Nam và tìm kiếm lời khuyên pháp lý trước khi đưa ra bất kỳ quyết định giao dịch tiền điện tử nào.
CẬP NHẬT PHÁP LÝ KHÁC
Một số công cụ pháp lý quan trọng cũng đã được ban hành gần đây:
- Nghị định 11/2021/NĐ-CP quy định việc phân bổ vùng biển cho các tổ chức, cá nhân cho khai thác và sử dụng tài nguyên biển. Công cụ này thay thế Nghị định 51/2014/NĐ-CP và chủ yếu làm rõ các quy định liên quan đến (1) việc phân bổ, công nhận và trả lại vùng biển, (2) gia hạn, sửa đổi, bổ sung quyết định phân bổ vùng biển, (3) tịch thu, vô hiệu quyết định phân bổ vùng biển và (4) phương pháp tính và thu phí sử dụng diện tích biển. Nghị định có hiệu lực từ ngày 30/03/2021.
- Nghị định 15/2021/NĐ-CP quy định chi tiết việc quản lý dự án đầu tư xây dựng. Nghị định đặc biệt khuyến khích việc áp dụng mô hình thông tin tòa nhà (”BIM”) và các giải pháp công nghệ số trong hoạt động xây dựng và quản lý công trình, mặc dù quyết định cuối cùng thuộc về các nhà đầu tư (và/hoặc cơ quan đầu tư có liên quan trong các sáng kiến công tư). Nghị định cũng quy định các điều kiện áp dụng một số phương pháp quản lý và tiêu chuẩn nước ngoài đối với các dự án đầu tư xây dựng. Nghị định có hiệu lực từ ngày 3 tháng 3 năm 2021.
- Nghị định 04/2021/NĐ-CP quy định hình phạt hành chính trong giáo dục khu vực. Đáng chú ý, văn phòng đại diện của các cơ sở giáo dục nước ngoài có thể bị phạt tới 40.000.000 đồng (khoảng 1.735 USD) nếu hoạt động mà không có giấy phép cơ sở hoặc hoạt động, hoặc 50.000.000 đồng (khoảng 2.170 USD) đối với việc giảng dạy chương trình giáo dục nước ngoài mà không được phép trước. Nghị định có hiệu lực từ ngày 10 tháng 3 năm 2021.
- Nghị định 08/2021/NĐ-CP điều chỉnh việc quản lý hoạt động đường thủy nội địa. Đáng chú ý, Nghị định yêu cầu nhà đầu tư tuân thủ các quy định về đầu tư, đầu tư công, xây dựng, đất đai, khoáng sản, môi trường và các quy định liên quan khác khi đầu tư xây dựng hạ tầng đường thủy nội địa. Ngoài ra, chủ đầu tư có trách nhiệm sửa đổi quy hoạch liên quan nếu việc xây dựng kênh thủy nội địa, cảng, bến cảng, khu neo đậu vượt quá quy hoạch đã phê duyệt. Nghị định có hiệu lực từ ngày 15/03/2021.
- Nghị định 05/2021/NĐ-CP quy định việc quản lý và sử dụng sân bay và sân bay. Nghị định chủ yếu tập trung vào (1) quy hoạch, mở cửa, đóng cửa và đầu tư sân bay, sân bay, (2) cấp giấy chứng nhận đăng ký, giấy chứng nhận vận hành sân bay, giấy phép kinh doanh tại sân bay, sân bay, và (3) quản lý và vận hành sân bay, sân bay. Nghị định có hiệu lực từ ngày 10 tháng 3 năm 2021.
- Thông tư 03/2021/TT-BTC hướng dẫn miễn và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (”CIT”) phát sinh bởi các doanh nghiệp khoa học và công nghệ (”STE”) theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP. Đáng chú ý, để đủ điều kiện được miễn thuế TNDN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP, các công ty được yêu cầu ghi riêng doanh thu phát sinh từ sản xuất, kinh doanh các sản phẩm khoa học và công nghệ và phải chiếm ít nhất 30% tổng doanh thu hàng năm. Thông tư có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2021.
- Thông tư 06/2021/TT-BTC hướng dẫn việc thực hiện một số điều của Luật Quản lý thuế liên quan đến xuất nhập khẩu. Cụ thể, Thông tư hướng dẫn nộp thuế bằng ngoại tệ, giao dịch thuế kỹ thuật số và các điều khoản nộp thuế, xử lý chậm nộp thuế, thủ tục hoàn thuế và các vấn đề liên quan khác. Thông tư có hiệu lực từ ngày 8 tháng 3 năm 2021.
- Thông tư 30/2020/TT-BYT xây dựng một số quy định về bảo hiểm y tế. Đáng chú ý, bất kỳ người mang thẻ nào đang trong tình trạng khẩn cấp có thể được điều trị tại bất kỳ cơ sở khám và điều trị y tế nào trên toàn quốc. Thông tư cũng làm sáng tỏ việc thanh toán chi phí khám bệnh và điều trị cho người hiến tạng. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/03/2021.
[1] Giáo sư Tiến sĩ Robby HOUBEN, Alexander SNYERS, “Tiền điện tử và blockchain: Bối cảnh pháp lý và tác động đối với tội phạm tài chính, rửa tiền và trốn thuế”, tháng 7 năm 2018, 20 & 21 (có sẵn điện tử qua https://www.europarl.europa.eu/cmsdata/150761/TAX3%20Study%20on%20cryptocurrencies%20and%20blockchain.pdf).
[2] Giáo sư Tiến sĩ Robby HOUBEN, Alexander SNYERS, “Tiền điện tử và blockchain: Bối cảnh pháp lý và tác động đối với tội phạm tài chính, rửa tiền và trốn thuế”, tháng 7 năm 2018, 22 (có sẵn điện tử qua https://www.europarl.europa.eu/cmsdata/150761/TAX3%20Study%20on%20cryptocurrencies%20and%20blockchain.pdf).
Bản tóm tắt này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung của nó không cấu thành tư vấn pháp lý và không nên được coi là lời khuyên chi tiết trong các trường hợp riêng lẻ. Để được tư vấn pháp lý, vui lòng liên hệ với Đối tác của chúng tôi.