Sự lây lan rộng rãi của COVID-19 đã dẫn đến hàng trăm nghìn người chết trên khắp thế giới. Chính sách khóa cửa do các bang cấp đã khiến các nhà máy, không gian bán lẻ và các địa điểm kinh doanh khác tạm thời đóng cửa và hàng triệu việc làm bị mất. Tập trung sản xuất và dựa vào một thị trường duy nhất đã dẫn đến sự bất ổn, gián đoạn và tác động nghiêm trọng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Các tập đoàn đa quốc gia sẵn sàng nhìn lại chiến lược của họ trong việc đa dạng hóa các nguồn cho chuỗi cung ứng.
Trên thực tế, đã có một làn sóng di dời chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc và sang các nước châu Á khác. Việt Nam đã xuất hiện trên bàn như một thị trường tiềm năng. Nhưng Việt Nam thực sự có gì để cung cấp?
Ngoài việc kiểm soát tốt sự lây lan của đại dịch COVID-19, Việt Nam còn là một quốc gia đang phát triển có chỗ cho tăng trưởng và phát triển. Với điều này, nó đã có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp để có được lợi ích lâu dài.
Thị trường lao động Việt Nam đang hấp dẫn. Bất chấp tác động của COVID-19 đối với nền kinh tế, thị trường lao động ở Việt Nam tương đối cạnh tranh vì dân số trong độ tuổi lao động trong quý II/2020 là khoảng 46,8 triệu người, so với tổng dân số là 96,2 triệu người, theo báo cáo chính thức gần đây nhất từ tháng 4 năm 2019.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy Chỉ số Vốn Nhân lực (HCI) ở Việt Nam đứng thứ hai, sau Singapore, với chỉ số tương đối cao 65%. Hơn nữa, Việt Nam cũng cung cấp chi phí lao động thấp hơn (khoảng 200 đô la một tháng vào năm 2020) so với các quốc gia khác, đặc biệt là Myanmar, Thái Lan và Indonesia.
Về lĩnh vực tiềm năng đầu tư, sản xuất hoặc phát triển các sản phẩm kỹ thuật số, phần mềm và điện tử công nghệ cao đủ điều kiện nhận các ưu đãi đầu tư hấp dẫn.
Điều này có nghĩa là Việt Nam mở cửa đầu tư phát triển công nghệ cao trong nhiều ngành công nghiệp. Báo cáo Doing Business in Vietnam do PwC thực hiện vào năm 2019 cho thấy, “Việt Nam đang chuyển hướng sang công nghệ cao, đại diện cho khoảng 43 tỷ USD giá trị xuất khẩu công nghệ cao trong năm 2016, cao hơn so với các đồng nghiệp bao gồm Thái Lan (34 tỷ USD), Philippines (32 tỷ USD) và Indonesia (3,9 tỷ USD).”
Ngoài ra, Việt Nam quyết tâm cải thiện khung pháp lý dựa trên các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế bằng cách sửa đổi nhiều luật cơ bản về doanh nghiệp và đầu tư gần đây.
Luật Đầu tư 2020 mới tiếp tục cắt giảm các ngành nghề kinh doanh có điều kiện để đầu tư, mở rộng danh mục đối tượng đủ điều kiện hưởng ưu đãi thương mại nhằm xóa bỏ rào cản kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
Chính phủ cũng đã cố gắng thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng cách tích cực đàm phán, phê chuẩn và thông qua các hiệp định thương mại tự do. Thành công gần đây nhất là Hiệp định Thương mại Tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), theo đó thuế ưu đãi sẽ thúc đẩy doanh nghiệp EU đầu tư vào Việt Nam, chứ không phải vào các nước cạnh tranh.
Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề tham nhũng trong những năm gần đây. Một hệ thống chính trị ổn định giảm thiểu rủi ro khủng hoảng kinh tế phát sinh từ khủng hoảng chính trị, tạo điều kiện cho một môi trường kinh doanh minh bạch và cải thiện niềm tin của các nhà đầu tư.
Trong cuộc đua thu hút làn sóng đầu tư nước ngoài mới, Việt Nam không phải là điểm đến hấp dẫn duy nhất và phải cạnh tranh với các nước châu Á khác. Nó cũng đang phải đối mặt với một số hạn chế về phát triển kinh tế ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của nó so với các nước láng giềng.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, lực lượng lao động được đào tạo và có trình độ tại Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thiếu hụt, chỉ chiếm 24% lực lượng lao động trong quý II/2020.
Quan điểm chung của Ngân hàng lao động đề cập đến yêu cầu nâng cao chất lượng lực lượng lao động tại Việt Nam để bảo vệ thị trường lao động cạnh tranh và phát triển bền vững. Giáo dục đại học và các khóa đào tạo nâng cao (nghề) được yêu cầu để đảm bảo nguồn cung cấp lao động lành nghề ổn định nhằm đảm bảo hiệu quả và năng suất. Điều này cũng sẽ cho phép thị trường lao động Việt Nam đáp ứng nhu cầu cao của các nhà đầu tư nước ngoài về lao động có tay nghề cao.
Về giao thông vận tải, mặc dù chính phủ đang phát triển cơ sở hạ tầng rộng rãi, mở rộng hệ thống sân bay và ngầm, các công trình xây dựng bị kéo dài và trì hoãn. Bên cạnh đó, cần có cơ chế và quy hoạch thành phố mạnh mẽ hơn để giải quyết vấn đề lưu lượng giao thông đông đúc về các trung tâm thành phố lớn và cải thiện giao thông công cộng cả về số lượng và chất lượng vì nó vẫn được phục vụ kém do sự phân bổ dân số không đồng đều. Hơn nữa, các thành phố lớn cũng bị ngập lụt nặng do hệ thống thoát nước cống kém.
Một rào cản thương mại khác là việc thực thi pháp luật được coi là mơ hồ và chủ quan. Có những vùng xám trong luật pháp và có những vấn đề chưa được quy định chi tiết và quyết định phụ thuộc phần lớn vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Hơn nữa, việc áp dụng luật được thực hiện dựa trên các lý do và tiêu chuẩn khác nhau do các cơ quan chức năng cá nhân khác nhau đặt ra, có thể đưa ra kết luận khác nhau về cùng một vấn đề. Do đó, sự thiếu minh bạch, đồng nhất và nhất quán thể hiện một hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật kém. Bên cạnh đó, có một mức độ quan liêu đáng kể trong bộ máy chính phủ.
Trừ khi các thay đổi được thực hiện trong hệ thống cơ quan nhà nước, bao gồm cả các cơ quan lập pháp và thực thi pháp luật, niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường sẽ bị xói mòn vì không có cơ chế bảo vệ đầy đủ lợi ích của họ.
Ngoài ra, thủ tục đăng ký và hành chính vẫn tốn thời gian và quan liêu. Việc đăng ký một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mới không được cam kết theo WTO hoặc quy định theo luật pháp Việt Nam có thể mất đến 38 ngày. Điều này có thể khiến các nhà đầu tư bỏ lỡ thời điểm vàng để đầu tư. Hơn nữa, điều có thể làm giảm động lực cho các nhà đầu tư nước ngoài là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép thuê đất trong thời gian tối đa là 50 năm từ nhà nước để thực hiện dự án đầu tư của họ.
Cần lưu ý rằng Trung Quốc trước đây đã đưa ra những cam kết rất rõ ràng với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đảm bảo quyền sở hữu của họ và duy trì các khoản đầu tư của họ ở Trung Quốc. Những gì Việt Nam có và cho đi chắc chắn sẽ được các nhà đầu tư nước ngoài so sánh với những gì Trung Quốc đã cam kết với họ.
Tuy nhiên, Việt Nam đang hướng tới hội nhập vào thị trường quốc tế. EVFTA là hy vọng phát triển mới của Việt Nam trong vài năm tới. Trong số những điều khác, EVFTA áp đặt cho Việt Nam nghĩa vụ đảm bảo “môi trường pháp lý có thể dự đoán được và các thủ tục hiệu quả cho các nhà khai thác kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ” như một sự thừa nhận tác động của “môi trường và thủ tục pháp lý có thể có đối với thương mại và đầu tư”.
Dự kiến pháp luật và thực thi pháp luật tại Việt Nam sẽ trở nên minh bạch, đáng tin cậy và thống nhất hơn để bảo vệ đầy đủ các quyền và lợi ích của các tổ chức kinh tế, và từ đó giành được sự tin tưởng của các tổ chức kinh tế.
Hơn nữa, Việt Nam cam kết thúc đẩy phát triển bền vững bao gồm phát triển xã hội, kinh tế và môi trường. Do đó, Việt Nam được yêu cầu thực hiện các chính sách thương mại và lao động lớn hơn như một phương tiện để công nhận vai trò có lợi của việc làm tốt, mang lại hiệu quả, năng suất và đổi mới cho nền kinh tế. Điều này bao gồm thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn lao động cốt lõi, thực thi quyền tự do lập hội và công nhận hiệu quả quyền thương lượng tập thể. Điều này đi kèm với sự tin tưởng rằng chính phủ sẽ thực hiện các quy định để yêu cầu chất lượng lao động cao. Bên cạnh đó, Việt Nam có nghĩa vụ ban hành các quy định nghiêm ngặt hơn về bảo vệ môi trường và khắc phục mọi vi phạm.
Rút kinh nghiệm từ những tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đã gây ra cho Việt Nam, Chính phủ cần nghiêm khắc hơn và chọn lọc hơn trong việc phê duyệt các dự án đầu tư nước ngoài. Không nên thu hút vốn nước ngoài bằng mọi giá, vì đã có những dự án gây bất lợi cho môi trường trong quá khứ, chẳng hạn như các nhà máy điện than hoặc Formosa. Thay vào đó, Việt Nam nên nhắm mục tiêu các dự án mang lại lợi ích bên ngoài cho các doanh nghiệp địa phương và nền kinh tế như các ngành công nghiệp công nghệ cao hoặc có thể làm phong phú thêm vai trò thiết yếu của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chính phủ nên sử dụng đầu tư nước ngoài như một lực lượng để tạo điều kiện, nâng cấp và củng cố khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương, ít nhất là trong 10 năm tới. Theo nghĩa đó, chính phủ được khuyến khích có một quy hoạch tổng thể cho các dự án đầu tư nước ngoài để tránh các tỉnh tự ý thiết lập chính sách khuyến khích để chào đón đầu tư nước ngoài như trước đây.
Làn sóng đầu tư nước ngoài sắp tới là hiển nhiên, nhưng liệu chúng ta có thể nắm bắt nó một cách hiệu quả hay không và chúng ta sẽ nắm bắt nó như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của chính phủ.
Bởi Bích Ngọc - Vietnam Investment Review